Chuông, Mõ, Khánh, nguồn gốc và ý nghĩa

Chuông, Mõ, Khánh là một trong những loại pháp khí đặc trưng của Phật Giáo. Niệm Phật, tụng kinh, không thể thiếu tiếng chuông, tiếng mõ hay âm thanh của Khánh được. Chúng ta thấy rằng những Pháp khí này như là một sự gắn bó khăng khít, không thể tách rời trong các nghi lễ Phật giáo. Vậy, nguồn gốc và ý nghĩa của Chuông, Mõ, Khánh như thế nào, chúng ta hãy cùng tìm hiểu.

chuông đài loan
Chuông Đài Loan

1. Nguồn gốc và ý nghĩa của Chuông

Nguồn gốc của chuông chỉ có thể nói là từ rất xa xưa, và được bắt nguồn từ Trung Hoa. Qua nghiên cứu các tài liệu nghiên cứu, chúng ta có thể tạm tổng hợp lại như sau:

Dựa theo cuốn Quảng Hoằng Minh Tập (số 2103) trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh có ghi rằng: vào thời Lục Triều (420 – 479) đã có nhiều lầu chuông. Năm Thiên Hoà thứ 5 (566) đời Bắc Châu, bài Nhị Giáo Chung Minh được khắc trên ba đại hồng chung lớn nhất thời bấy giờ. 2 cái trong 3 cái này được đúc vào năm 570 và 665 TL.

Còn trong Tục Cao Tăng Truyện có ghi rằng, năm thứ 5 đời Tuỳ Đại Nghiệp (609), ngài Trí Hưng nhận lo việc chuông tại chùa Thiền Định ở kinh đô Trường An. Trong khoảng thời gian này và trở về sau, Bắc Châu không ngừng đúc hồng chung để an trí trong các tự viện.

Thêm một điều nữa, theo truyền thuyết cho rằng, hồng chung là do Hoà Thượng Chí Công khởi xướng và vua Lương Võ Đế (thế kỷ thứ VI) thực hiện để cầu nguyện cho các thần thức bị đọa trong chốn địa ngục gọi là chốn U Minh.

Có thể thấy rằng dù Chuông ra đời cách đây bao lâu thì sự ra đời của nó là gắn với Phật giáo, cũng như mục đích của nó là để làm phương tiện phục vụ cho các hoạt động của Phật giáo thời đó. Và cho đến tận bây giờ, chuông vẫn mang trọn ý nghĩa và mục đích mà nó được sinh ra.

Các loại chuông thường được sử dụng trong các chùa chiền, tự viện:

a) Phạn chung (chuông Phạn): Cũng gọi là “đại chung”, “hồng chung”, “hoa chung” hoặc “cự chung”. Chuông này được đúc bằng đồng xanh pha ít sắt. Trung bình chiều cao của chuông khoảng 1,5m, chuông có đường kính khoảng 6 tấc. Loại chuông này được treo trong lầu chuông, mục đích thỉnh chuông là để chiêu tập đại chúng hoặc báo thời sớm tối. Người Việt Nam mình thường dùng từ “đại hồng chung” để chỉ loại chuông thật to, chứ gần như không còn có quy định cụ thể là rộng hẹp bao nhiêu nữa. Chuông này còn được gọi là chuông U Minh.

b) Bán chung (chuông bán): Vì kích thước chỉ bằng 1/2 chuông phạn, nên được gọi là bán chung, ngoài ra còn được gọi là “hoán chung” hoặc “tiểu chung.Chuông này thường được đúc bằng đồng, cao khoảng 6 đến 8 tấc, thường để tại một góc trong chánh điện và được sử dụng trong các buổi pháp hội, nên còn có tên khác là “hành lễ chung”. Người Việt mình cũng như các nước khác ngày nay cũng linh động chế tạo nhiều loại chuông dạng “bán chung” này, nhưng cũng không có kích thước cố định.

c) Bảo Chúng chung (chuông báo chúng): Cũng còn gọi là chuông Tăng đường, tức là chuông nhỏ, một người cũng xách lên được. Hình dạng cũng giống như đại hồng chung, thường được treo ở trai đường, dùng để báo tin cho Tăng chúng biết vào những lúc: Họp đại chúng, thọ trai, giờ chấp tác, giờ bái sám trong các tự viện.

d) Gia Trì chung (chuông gia trì): Loại chuông này thường dùng để đánh lên trong lúc tụng kinh, bái sám. Tiếng chuông được sử dụng trước khi tụng kinh hay báo hiệu sắp hết đoạn kinh đang tụng hoặc câu niệm Phật. Cũng thường được đánh lên khi lạy Phật một mình. Khi có đông người thì dùng để báo hiệu cùng lạy cho nhịp nhàng. Chuông gia trì có đủ ba loại lớn, vừa và nhỏ. Chuông vừa và nhỏ thì thường thường Phật tử tại gia dùng nhiều hơn và cũng dùng như chư Tăng.

Trong thời cực thịnh của Thiền Tông, chuông an trí tại thiền đường, trai đường gọi là “Tăng Đường chung”, “Trai chung”; chuông để tại chánh điện gọi là “Điện chung”… Những vị lo việc chuông này gọi là “Chung Đầu.”

Về việc thỉnh (đánh) chuông, xưa ở Trung Hoa tuỳ mỗi Tông phái, từng địa phương mà quy định có khác nhau, nhưng tổng quát là khi bắt đầu thỉnh 3 tiếng và khi kết thúc đánh nhanh 2 tiếng hoặc 3 hồi chín tiếng cho các loại chuông nhỏ khi tụng kinh. Số lượng tiếng thường là 18, cũng có khi thỉnh 36 tiếng, 108 tiếng. Thỉnh 108 tiếng biểu thị hành giả nỗ lực làm vơi cạn đi 108 loại phiền não nơi nội tâm. Mười tám tiếng là biểu thị sự thanh lọc 6 căn, 6 trần và 6 thức.

Theo niềm tin cho rằng tiếng vang của chuông có thể thấu đến cõi địa ngục u ám, chúng sanh nào bị đọa nơi địa ngục nhờ nghe tiếng chuông này liền được giải thoát. Lại nữa, tiếng chuông thanh thoát của chùa có thể giúp cho loài quỷ đói được nhẹ bớt lòng tham lam, sân hận mà giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Ở các ngôi chùa Việt Nam hiện nay cũng như các chùa Trung Quốc thời xưa hoặc các chùa thuộc các nước theo Phật giáo Đại Thừa như Nhật Bản, Triều Tiên… thường có quả chuông lớn để thỉnh vào hai buổi sáng tối trong ngày khi cầu nguyện. Giờ thỉnh chuông buổi sáng lúc 4 giờ hoặc trước thời công phu buổi sang, tuỳ theo quy định của mỗi chùa.

Kệ thỉnh chuông:

Người thỉnh chuông vừa đánh chuông vừa đọc bài kệ:

Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất giai văn.
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác.
Nghĩa là:
Nguyện tiếng chuông này khắp pháp giới,
Thiết vi u ám cùng nghe được,
Căn cảnh thanh tịnh chứng viên thông,
Hết thảy chúng sanh thành chánh giác
.

(Bản dịch của Hòa Thượng Trí Quang – Luật Sa-di, Sa-di-ni – Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, 1989).Dịch thơ:

1. Nguyện tiếng chuông vang rền pháp giới,
Chúng sanh ngục sắt thảy đều nghe.
Tiếng đời sạch, chứng được viên thông,
Tất cả muôn loài đều giác ngộ.
(Thích Nhật Từ).
2. Tiếng chuông nguyện vang rền các cõi,
Núi Thiết Vi tăm tối nghe hay.
Âm thanh đời lắng sạch thay,
Chúng sanh giác ngộ, tỏ bày an nhiên.
(Thích Nhật Từ).
2. Nguồn gốc và ý nghĩa của MÕ:
mõ đài loan 4 inchMõ Đài Loan

Theo sách Tam Tài Đồ Hội của Vương Tích đời Minh có đoạn: “ là loại mà dùng cây khắc thành hình con cá, rỗng bên trong, gõ nó sẽ phát ra tiếng, các hàng Phật Tử khi tán tụng đều dùng đến nó”.

Theo như Sách Tham Thiền Ngũ Đài Sơn Ký (quyển 3) có ghi chép, Tống Thần Tông, Hy Ninh năm thứ 5 ngày mồng 8 tháng 8 ghi: Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng ngài Phó Đại Sỹ. Mỗi khi Ngài muốn gặp các vị tu hạnh đầu đà nơi cao sơn, chỉ gõ mõ, chư vị sau khi nghe tiếng ấy liền đến. Sau đó, các tự viện lớn nhỏ dưới chân núi đều dùng mõ để tập họp đại chúng.

Theo sách Thích Thị Yếu Lãm ghi rằng: Chuông, khánh, bản đá, bản gỗ, đều có khả năng phát ra âm thanh một khi gõ vào và nhờ nghe đó mà đại chúng tập họp nên các loại đó đều gọi là Kiền Chuỳ.

Sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy, chương Pháp Khí cũng nói khi dùng cơm hoặc khi phổ thỉnh chúng Tăng đều gõ . Từ đây chúng ta có thể hiểu lúc đầu (loại mõ điếu – hình dài) dài được dùng để tập họp Tăng chúng.

Lại có người cho rằng là do Sa-môn Chí Lâm đời Đường tạo ra, nhưng điều này cũng không lấy gì làm chắc, vì không có sử liệu rõ ràng.

Mõ có 2 loại:

– Loại thứ nhất: hình hình bầu dục (thường mô phỏng hình con cá có vảy cuộn tròn): Dùng khi tụng kinh. Được dùng tại Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và một số quốc gia khác. Loại mõ này được nói là xuất hiện vào triều đại nhà Minh. Tiếng mõ với mục đích chính là giữ trường canh cho đại chúng khi tụng kinh được nhịp nhàng; vừa giữ cho buổi lễ được trang nghiêm lại vừa giữ cho tâm hồn khỏi tán loạn trong khi hành lễ. Bởi vậy, người đánh mõ gọi là Duyệt Chúng, ý nghĩa muốn diễn đạt là làm đẹp lòng mọi người trong lúc cùng tụng kinh với nhau.

– Loại thứ hai:  hình điếu (thường mô phỏng hình con cá dài thẳng): Treo ở Trai đường, nhà trù… dùng để báo hiệu cho đại chúng khi thọ trai hay chấp tác. Loại mõ này chỉ dùng trong các chùa cổ Trung Hoa; các chùa chiền, tự viện Việt Nam không dùng (thường chỉ gõ khánh hay bản). Ngoài ra, cũng có một loại mõ rất nhỏ dùng để chư Tăng Ni niệm Phật khi đi kinh hành (nhiễu Phật).

Nhưng vì sao cả 2 loại đều khắc hình con cá? Theo như sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy có nói rằng, vì loài cá suốt ngày đêm đều tỉnh, nên khắc hình con cá để mỗi khi gõ, chúng ta tự nhắc mình phải tỉnh thức, chớ có hôn trầm, giải đãi.

3. KHÁNH:

khánh đài loan
Khánh Đài Loan

Khánh tiếng Phạn là Kiền Chùy (trong luật Phật thường gọi là Kiền Chùy Thành), dịch là chuông hay khánh.

Khánh cũng là một pháp khí như bảng. Cách dùng cũng tương tự nhau, chỉ có hình thức và nguyên liệu chế tác là khác nhau thôi. Hình dạng của bảng là hình bát giác và làm bằng gỗ, còn hình dạng của khánh thì làm theo hình bán nguyệt và đúc bằng đồng, hoặc có khi làm bằng đá cẩm thạch.

Ngày nay trong các tự viện, khánh làm bằng đồng chừng bằng cái đĩa lớn, treo trong một cái giá gỗ, thường dùng để báo hiệu trong phạm vi nhỏ, chẳng hạn như để báo thọ trai hay khi thỉnh một vị Tăng, Ni từ trong liêu ra Pháp đường; hoặc đón rước một vị đại sư hay danh tăng đến tự viện, nghi lễ nầy đi trước là khay lễ gồm nhang, đèn, hoa, quả, kế theo là một vị cầm khánh treo trong giá, vừa đi vừa đánh khánh rồi tiếp theo là vị được đón rước theo sau – có thể có cả lọng – rồi mới tiếp đến những Tăng Ni khác tùy theo phẩm trật xếp thành thứ tự.

Những vị Tăng Ni nhập đại định, muốn báo cho vị ấy xuất định, người ta cũng dùng tiếng khánh để cảnh tĩnh.

Sự mầu nhiệm của tiếng khánh:

Theo như các vị Thiền sử ghi lại thì tiếng khánh có tác dụng rất lớn đối với người tu thiền. Một khi Thiền giả đã vào các tầng thiền như “Diệt thọ tưởng định” thì dù có trời long đất lở thân tâm của vị ấy cũng bất động. Tuy nhiên, chỉ với một vài tiếng khánh nhỏ cũng đủ đánh thức các ngài dậy. Câu chuyện ngài Hư Vân là một điển hình, trong một cơn thiền định xuất thần kéo dài cả tuần, chư vị Hòa Thượng khác đã dùng khánh mà đánh thức ngài xuất định.

Nguồn: thuviengdpt.info

Trả lời